Theo thống kê, số lượng họ của người Nhật (dân số khoảng 126 triệu) là khoảng 200 nghìn, tương đối nhiều so với các quốc gia gần gũi về văn hoá khác như Trung Quốc (khoảng 5 nghìn họ trên tổng số 1,5 tỷ dân), Hàn Quốc (khoảng 300 họ với tổng số 51 triệu dân) hay Việt Nam (khoảng 1000 họ cho 97 triệu dân, riêng với người Kinh là khoảng 165 họ). Người Nhật cũng không có một số họ chiếm số đông trong dân số như họ Nguyễn-Trần-Lê ở Việt Nam hay Kim-Lee-Park ở Hàn Quốc.
Trước thời kỳ Minh Trị Duy Tân, nhiều người Nhật vốn không có họ riêng mà chỉ có quý tộc, thương nhân, nghệ nhân và samurai mới được phép mang họ. Những dòng họ lớn của Nhật Bản thời phong kiến thường có nguồn gốc hoàng gia hoặc quý tộc lớn trong triều đình.
Vào thời Heian thì các trọng thần trong triều thường thuộc tứ đại gia tộc 源 (Minamoto), Bình 平 (Taira, Hei), Đằng Nguyên 藤 原 (Fujiwara) và Quất 橘 (Tachibana). Các gia tộc này ngày một lớn mạnh và được chia thành nhiều nhánh, các nhánh này tiếp tục thay đổi họ (名字) có ý nghĩa liên quan tới địa lý. Ví dụ các chi phụ của dòng họ Fujiwara lấy họ mới dựa trên nơi ở thuộc kinh đô Kyoto như Ichijo, Nijo, Konoe,… Con cháu của dòng họ Minamoto của Mạc phủ Kamakura cũng chia thành nhiều dòng họ mới lớn mạnh như Ashikaga, Nitta, Tokugawa,… Nhiều họ ở Nhật bây giờ có nguồn gốc từ các nhánh khác nhau của đại tộc Minamoto.
Vào thời Chiến Quốc, việc các tầng lớp phía dưới (samurai đẳng cấp thấp, khởi nghĩa nông dân) bắt đầu lật đổ các gia tộc samurai lớn (hạ khắc thượng) dẫn tới việc nhiều samurai ở các địa phương cho phép nông dân trong quân đội của mình. Tuy nhiên tới khi Toyotomi Hideyoshi cơ bản thống nhất Nhật Bản thì ông lại ban hành chính sách phân biệt giai cấp võ sĩ và nông dân. những người nông dân Nhật lại không được mang họ cho tới hết thời kỳ Edo.
Sau khi cải cách Minh Trị thành công, chính phủ mới tiến hành những thay đổi về quản lý hành chính và người dân bình thường đã có thể được phép có họ riêng. Người Nhật có thể lựa chọn họ dựa trên họ gốc từ thời Edo; họ của những người quan trọng trong khu vực; họ tự đặt ra dựa theo trên địa danh, địa hình, phong cảnh, phương hướng, vị trí hay nghề nghiệp. Vì thế bạn sẽ thấy họ của người Nhật có rất nhiều chữ Hán liên quan tới các yếu tố này như:
川 (kawa) : sông
橋 (hashi) : cầu
井 (i) : cái giếng
田 (ta, da) : cánh đồng lúa
原(hara, bara, wara) : đồng bằng
野 (no) : đồng ruộng
芝 (shiba) : cỏ
藤 (fuji) : hoa tử đằng
松 (matsu) : cây thông
杉 (sugi) : cây tuyết tùng
竹 (take) : cây tre
木 (ki) : cây cối
林 (hayashi) : rừng
森 (mori) : rừng rậm
坂 (saka) : con dốc
岡 (oka) : đồi
山 (yama) : núi
池 (ike) : ao
沼 (numa) : đầm
沢 (zawa) : lạch
崎 (saki) : mũi đất
石 (ishi) : đá
岩 (iwa) : đá tảng
谷 (tani) : thung lũng
浜 (hama) : bờ biển
島 (shima) : đảo
村 (mura) : thôn
里 (sato) : làng
戸 (to) : cổng
宮 (miya) : điện
神 (kami) : thần
Sự kết hợp đa dạng từ các yếu tố này đã tạo nên số lượng họ đa dạng của người Nhật.
Theo Diễn đàn Khai Phóng, Wa-pedia
0 件のコメント:
コメントを投稿